Cốm Làng Vòng tươi:
Cốm Làng Vòng khô:
Bánh Cốm, bánh phu thê : đồng giá 6000đ/chiếc
Chả Cốm : 180.000đ/kg
Liên hệ mua hàng:
BÁNH PHU THÊ - MÓN BÁNH CỦA NGHĨA VỢ CHỒNG
Ở Việt Nam, bánh phu thê được coi là món bánh cổ truyền đặc biệt tượng trưng cho tình cảm sắt son giữa các cặp vợ chồng. Chuyện kể rằng khi vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua bóc vỏ bánh ra, thấy bánh có một màu vàng óng, trong suốt, ăn thì mát, ngon, lại nghĩ đến tình vợ chồng nên đã đặt tên bánh là bánh phu thê.
Bánh phu thê thường được phục vụ tại các đám cưới Việt Nam và được coi như một lời mời đám cưới của nhà trai và nhà gái. Chiếc bánh dính dính, tượng trưng cho sự gắn bó keo sơn giữa các cặp vợ chồng...
Hương vị bánh ngọt ngào, giống như mật ong vậy. Đó cũng là hương vị của tình yêu mà chiếc bánh mang đến, tựa như một lời chúc phúc cho đôi uyên ương mãi mãi giữ được tình cảm mặn nồng, ấm áp. Sở dĩ gọi là bánh phu thê bởi đó là biểu tượng cho đôi vợ chồng đẹp duyên: vuông tròn, trong trắng mềm dẻo, ngọt ngào, thơm tho, xanh thắm, đồng thời cũng là biểu tượng của đất trời, có âm dương ngũ hành: Ruột trắng, nhân vàng, hai vỏ xanh úp lại buộc bằng sợi dây hồng.
Nói đến bánh phu thê, người ta thường nghĩ ngay đến làng Đình Bảng. Bởi lẽ, nơi này vốn có truyền thống làm bánh phu thê lâu đời nhất, cũng là nơi sở hữu công thức của những chiếc bánh ngon nhất. Bánh phu thê làng Đình Bảng có những nét độc đáo riêng mà không nơi đâu có được. Dân làng dù giàu, dù nghèo, vẫn dành riêng một thửa ruộng để trồng nếp cái hoa vàng, thứ nếp dùng để làm bánh. Nếp này được rửa sạch, để ráo và dùng cối giã chứ không phải bằng máy. Sau đó, bột được lọc kĩ, phơi khô, trở thành thứ bột hảo hạng, trắng tinh, mịn mượt. Mà sau khi được bột rồi, cũng còn phải để 15 ngày mới được đem ra làm bánh, nếu không, bánh sẽ nát.
Thường thì 10kg gạo nếp mới lọc được 4kg bột bánh, chỉ tính riêng có vậy cũng đủ để ta thấy được cái chất của bột nếp này. Để bánh có màu đẹp mắt, người Đình Bảng không dùng màu thực phẩm mà giã quả dành dành rồi lọc lấy nước màu vàng óng, thêm vào chút nước hoa bưởi được trưng cất, cùng sợi đu đủ nạo nhỏ, ngâm phèn rồi rửa sạch, vắt kiệt, tạo thành thứ nước màu trong vắt mà tinh khiết. Nước ấy đem trộn cùng bột với đường kính, nhào luyện cho dẻo quánh để làm vỏ bánh. Đến khi bánh làm xong, bóc ra ta sẽ thấy bánh có màu vàng ươm trong suốt nhìn rõ những sợi đu đủ nạo nhỏ rắc lẫn bên trong trông thật hấp dẫn.
Nhân bánh là đỗ xanh ngâm kỹ đãi sạch vỏ, đem hấp chín, rồi mới nghiền mịn, thắng với đường và trộn lẫn vài sợi dừa đã được nạo nhỏ. Khi ăn, bánh thường được cắt làm bốn do vậy, trong nhân bánh, 4 hạt sen được đặt ở 4 góc.
Ngay cả lá gói bánh cũng được chuẩn bị kĩ lưỡng. Theo truyền thống, bánh được gói bằng hai thứ lá. Bên trong là lớp lá chuối, ngoài cùng lá lớp lá dong. Lá lót trong phải là lá chuối tây dẻo luộc chín, hong khô, người ta còn quét lên lá một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính, còn làm cho bánh có độ ngậy đặc trưng. Lớp lá dong bên ngoài cũng phải rửa thật kĩ, để ráo nước và tước bớt cọng để khi gói bánh được mềm mại.
Công đoạn cuối cùng là luộc bánh. Luộc bánh tốt nhất là luộc bằng bếp củi đun vừa lửa. Luộc xong thường để cách một ngày mới ăn, lúc này, bánh mới thực sự ngon. Bánh bóc ra trong trẻo, mịn màng, thơm phức mùi nếp mới. Khi ăn, ta sẽ cảm nhận được cái dẻo thơm của nếp, cái giòn giòn của đu đủ, cái ngầy ngậy của đỗ xanh, vị béo của cùi dừa, vị bùi của hạt sen và vị ngọt thanh của đường… tất cả hòa quyện trong chiếc bánh, làm nên hương vị ngon ngọt mát lành, nức tiếng gần xa.
Tương truyền nếu hai vợ chồng hay hai người yêu nhau mỗi người ăn một cái cùng một cặp thì sẽ yêu nhau trọn đời. Cho đến ngày nay, đưa bánh phu thê đến nhà gái ngày dạm ngõ vẫn là một phong tục thiết yếu trong mỗi đám cưới Việt Nam.
Cơ sở sản xuất Cốm Chính Gốc Làng Vòng
Bản đồ: